Monday, November 4, 2013
PHIM Đối với Thạch Lam người nghệ sĩ:
PHIM Đối với Thạch Lam người nghệ sĩ: “phải làm sống lại trong tiểu thuyết cái không khí bao bọc lấy vai chính. Phải bày tỏ bằng những hành động cái tâm lý của các nhân vật. Sự quan sát, bởi thế, rất cần: quan sát đúng, tìm những hành vi chính, đó là cái tài nghệ sĩ. Những điều nho nhỏ, một nét mặt, một cử chỉ, một giọng nói, cho chúng ta biết rõ tâm lý một người hơn những công việc và quyết định hệ trọng, trong lúc ấy người ta xét lại mình. Những cái mà ta coi là nhỏ nhặt, vụn vặt hay tỉ mỉ chính lại là những cốt yếu của tiểu thuyết hay” (5/tr.496). Với tài năng và tâm huyết của một nhà văn, Thạch Lam đã sớm đưa ra sự đúc kết lý thuyết văn học như một bài học kinh nghiệm rất đáng trân quý cho những người theo nghiệp sáng tạo văn học - một công việc luôn đòi hỏi rất cao sự tinh tế và nhạy cảm. Người nghệ sĩ như người thợ đãi cát tìm vàng, phải biết phân biệt “vàng” và “thau”, biết chọn lọc, tinh chắt lấy những gì cần thiết nhất (cho dù là rất nhỏ) nhưng có giá trị phục vụ cho chất lượng, hiệu quả nghệ thuật của từng câu văn, trang viết. Lao động của nhà văn là một lao động khó nhọc là vậy.
phim le hay Lý luận hiện đại ngày nay
phim le hay Lý luận hiện đại ngày nay thừa nhận chỉ có những người nghệ sĩ có tiềm lực tinh thần, có tài năng và phẩm chất đặc biệt mới có thể sáng tạo nên tác phẩm văn học nghệ thuật. Trong Theo dòng, bàn đến lao động của nhà văn, Thạch Lam cho rằng viết văn là một nghề “khó nhọc, biết bao công tìm”. Ông phê phán lối viết dễ dãi “không muốn có một tị cố công nào” (5/tr. 488), chỉ cốt viết cho xong, “thế nào cũng được” (5/tr.488). Ông đồng tình và dẫn câu nói của A. Gide: “Có hai mươi cách diễn đạt ý tưởng, nhưng chỉ có một cách là đúng”. Để đi đến được cách đúng ấy nhà văn phải mất rất nhiều thời gian, “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” trên cánh đồng chữ nghĩa. Như vậy trong quan niệm của Thạch Lam tài năng chính là kiên nhẫn, việc kiên nhẫn tìm tòi để phát hiện và diễn đạt một cách chính xác hồn cốt, đặc trưng của đối tượng miêu tả là vấn đề quan trọng hàng đầu trong sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Lý luận hiện đại gọi đây là năng lực quan sát. Sáng tác thành công hay không không hẳn là do đề tài mới lạ mà điều quyết định là ở chỗ người cầm bút có phát hiện được những điều mới lạ, sâu sắc trong những hiện tượng rất quen thuộc thông thường hay không. Đúng như Rodin (nhà điêu khắc người Pháp) nói: “Người đáng gọi bậc thầy là người biết dùng đôi mắt của mình để nhìn những cái mà người khác cũng thấy, nhưng ở nơi mà người khác nhìn đã quá quen, không thấy gì nữa, lại phát hiện ra được cái đẹp”. Nhưng vấn đề không phải chỉ dừng lại ở sự quan sát bề ngoài, Thạch Lam cho rằng đối với nghệ sĩ, quan sát bên trong, hiểu và tái dựng được sự phong phú, sinh động bên trong của sự vật hiện tượng mới là điều quan trọng, ông viết: “Một nhà văn biết quan sát, tất nhiên. Người ta thường hiểu sự quan sát bề ngoài là cái tài chụp hình và ghi nhớ sự vật. Sự quan sát ấy không đủ và chỉ khiến cho tác phẩm trở nên khô khan hay có vị khôi hài. Cần hơn là sự quan sát bề trong, khiến nghệ sĩ có thể hiểu được cái ý nghĩa giấu kín của sự vật, cái trạng thái tâm lý của một cử chỉ hay một lời nói” (5/ tr.507). Và chỉ khi nào nghệ sĩ có năng lực quan sát bên trong thì mới có thể làm tròn sứ mệnh cầm bút, mới có thể m
phim hd Tập tiểu luận mang tên Theo dòng
phim hd Tập tiểu luận mang tên Theo dòng (đồng thời cũng là tên mục Theo dòng trên tờ Ngày nay do Thạch Lam phụ trách) có nghĩa là theo dòng tư tưởng, theo dòng thời gian không có sự sắp đặt thứ tự trước. Có lẽ vì ý hướng như vậy nên dòng tư tưởng của tác giả được thể hiện một cách đứt đoạn, không có chương mục và không liên kết thông suốt như một công trình khoa học. Dường như ý kiến của Thạch Lam xung quanh các vấn đề lý thuyết văn học được phát biểu như một sự đúc kết từ kinh nghiệm bản thân ông với vai trò vừa là người sáng tác vừa là người đọc tác phẩm văn học. Xung quanh các ý kiến của Thạch Lam có thể nhận thấy ông quan tâm đến khá toàn diện các vấn đề lý luận văn học như: tư duy nghệ thuật của nhà văn, tác phẩm văn học, chức năng của văn học, nhân vật trong tác phẩm, tiếp nhận văn học, phê bình văn học. Đã có một số nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Thị Kiều Anh, Đinh Hùng, Nguyễn Văn Tùng… ít nhiều đề cập đến Theo dòng ở các góc độ khác nhau như lý luận về thể loại tiểu thuyết, sự thành thực và thái độ trí thức... Trong bài viết này chúng tôi cố gắng tập trung làm rõ hơn quan niệm của Thạch Lam về hai phương diện lý luận cơ bản: Vấn đề nhà văn - chủ thể sáng tác và vấn đề người đọc với tiếp nhận văn học. Đặt trong cái nhìn đối sánh, liên hệ với tư duy lý luận văn học hiện đại ở Việt Nam sau nhiều năm tiếp thu lý luận hiện đại thế giới để đổi mới và phát triển, hy vọng góp thêm tiếng nói khẳng định thành tựu văn nghiệp của Thạch Lam nói riêng và Tự lực văn đoàn nói chung.
phim Mặc dù Vũ Ngọc Phan cho rằng Theo dòng
phim Mặc dù Vũ Ngọc Phan cho rằng Theo dòng “ý tưởng rất rời rạc, tan tác như bèo trôi” (5/tr.565), còn Thế Phong đánh giá “Theo dòng là một cuốn sách nghị luận về viết văn… cũng chỉ là một thứ khảo luận, chưa có ứng dụng của tác giả; cho nên thiếu sâu sắc như những thiên hồi ký của nhà văn nổi tiếng thế giới viết về kinh nghiệm văn chương đời mình” (4/tr.574) nhưng với độ lùi thời gian đủ để nhìn lại và suy ngẫm, đặt Theo dòng trong dòng chảy của tiến trình hiện đại hóa lý luận văn học ở Việt Nam trong thế kỷ XX, đặc biệt là công cuộc đổi mới lý luận văn học từ 1986 đến nay, có thể thấy tác phẩm này của Thạch Lam chứa đựng nhiều quan điểm lý luận văn học dù mới ở mức độ sơ khởi nhưng rất hiện đại, tiến bộ cần được xem xét, đánh giá lại cho thỏa đáng.
phim viet Hồi ký
phim viet Hồi ký - tự truyện về thời thơ ấu, về đời văn và nghề văn của các nhà văn Việt Nam hiện đại, đã làm phong phú và sâu sắc thêm bức tranh về đời sống xã hội - lịch sử, văn hóa - văn nghệ, chân dung văn nghệ sĩ và con người Việt Nam đương thời qua thăng trầm của lịch sử dân tộc. Nó bộc lộ một cách trung thực bản lĩnh nghệ sĩ, nhân cách văn hóa, những suy nghĩ, trăn trở tâm huyết của các thế hệ văn nghệ sĩ trước những vấn đề lớn, nhỏ của lịch sử đất nước, vận mệnh con người và đặc thù, riêng tư về nghề nghiệp mà suốt đời họ theo đuổi, cống hiến. Qua hồi ký - tự truyện của các nhà văn, người đọc thấy rõ hơn sự gắn bó máu thịt giữa văn và đời, giữa tác phẩm và sự kinh lịch, nếm trải trên mỗi bước đi của từng đời văn, nghiệp văn. “Văn tức là người”; “Phong cách tức là người”. Hồi ký - tự truyện của các nhà văn đã mở ra một cách nhìn tham chiếu cần thiết để người đọc và công chúng rộng rãi chia sẻ một cách tường minh, nhân ái và thể tất về những cái được và những điều bất cập của những người cầm bút, những kỹ sư tâm hồn, những con người dấn thân nhưng luôn luôn tự nhắc mình tìm cách đi đúng đường vì đang “vác trên vai mình của quý vô hạn là những gói bạc vàng của tâm hồn con người”, như nhà văn bậc thầy Thạch Lam đã từng nói. (*)
phim bảo trọng nhân cách của một con người trẻ tuổi có học
phim bảo trọng nhân cách của một con người trẻ tuổi có học, biết nghĩ, biết vươn lên trong mưu sinh, khốn khó. Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tư tưởng và bút pháp nghệ thuật của tác phẩm đã khiến tác phẩm tồn tại bền vững qua thử thách của thời gian. Sức sống mạnh mẽ, giọng điệu thống thiết, đằm thắm, tình cảm tươi mới, trẻ trung, lúc nào cũng biểu hiện ở cường độ cao, mãnh liệt, cảnh sắc rực rỡ, âm thanh náo động… trong văn Nguyên Hồng luôn có sức thu hút người đọc. Giáo sư Phan Cự Đệ, một chuyên gia nghiên cứu về Nguyên Hồng đã kể lại: “Tôi nhớ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, một lần phải dịch ra Pháp văn một đoạn trong Những ngày thơ ấu, cái đoạn nói về tiếng kèn. Đã bao năm qua rồi mà tôi vẫn không thể quên được cái tiếng kèn náo nức, dồn dập, rung vang đó”. (“Lời giới thiệu” Tuyển tập Nguyên Hồng, tập I, Nxb. Văn học, 1985, tr.33). Nếu như trong văn học thế giới, người ta ghi nhận J.J.Rutxô với Những lời bộc bạch (1782-1789) mở đầu cho thể tài tự truyện, thì trong văn học Việt Nam hiện đại, phải chăng chúng ta cần ghi nhận Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu đã mở đầu cho thể tài hồi ký - tự truyện.
phim bo han quoc Trong những hồi ký về sau k
phim bo han quoc Trong những hồi ký về sau kể về đời văn của mình, Nguyên Hồng có cho biết thời trẻ trai lúc còn đi học và trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) ông có được tiếp xúc và đọc một số tác phẩm của L.Tônxtôi, V.Hugô, M.Gorky, H.Barbusse… qua bản tiếng Pháp, trong đó có tự truyện Thời thơ ấu của M.Gorky. Tôi nghĩ, chắc hẳn câu chuyện về thời niên thiếu của cậu bé Aliosa và bút pháp tự sự của M.Gorky trong tự truyện Thời thơ ấu hẳn đã ít nhiều ảnh hưởng đến tư duy nghệ thuật và bút pháp của Nguyên Hồng, bởi số phận bất hạnh của Aliosa và cậu bé Hồng ít nhiều có những nét gần gũi, bởi “tạng” văn của Nguyên Hồng có những điểm tương đồng với M.Gorky. Thế là, đã hơn 70 năm trôi qua, kể từ ngày Những ngày thơ ấu được xuất bản. Tác phẩm được tái bản nhiều lần, vẫn không thôi xúc động người đọc các thế hệ, gây ám ảnh khôn nguôi về sự cơ cực, tủi hổ của những số phận con người nhỏ bé trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng 8/1945; sự tha hóa đáng thương cảm của con người sống mòn mỏi trong vòng vây của một xã hội cũ còn tồn tại nhiều tệ nạn xấu xa, sự bất công, vô nhân đạo. Nhưng vượt lên trên tất cả là chí khí, ý thức tu tỉnh, hướng t
xem phim hay nhat Trong một bài viết khác
xem phim hay nhat Trong một bài viết khác, khi bàn về tiểu thuyết, Thạch Lam có nhận xét thẳng thắn về sự nghèo nàn, hời hợt, nông nổi bề ngoài, thiếu sâu sắc, dồi dào của tiểu thuyết Việt Nam hồi bấy giờ, bởi trong những tác phẩm tự sự đó, nhà văn đã như người đi nhầm đường, không biết nhận ra, đi sâu khai thác cái của quý vô hạn là tâm hồn con người (tâm hồn tác giả, tâm hồn nhân vật), diễn tả nó ra, phân tích kỹ lưỡng và nghệ thuật những biểu hiện, thay đổi của tâm hồn trong đời sống phồn tạp của con người ta. Ông nhấn mạnh, cái mà văn học ta thiếu lúc này là nhận ra địa vị quan trọng của việc khám phá những bí mật của thế giới bên trong con người, bởi chỉ ở đây mới cho thấy nhà văn - qua công cụ ngôn ngữ đặc thù - đã nhìn sâu sắc vào cái phần không dễ thấy của con người, đồng thời cũng cho thấy bản lĩnh độc lập và tâm hồn thanh cao của người viết. Thạch Lam khẳng định: “Tài năng không phải ở cách xếp đặt các câu văn, xếp đặt cốt truyện cho có mạch lạc; cái thực tài của nhà văn nguồn gốc ở chính tâm hồn nhà văn; một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú, những tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo mà thôi”. (Theo dòng, Nxb. Đời nay, 1941) Trở lại ý kiến của Thạch Lam về Những ngày thơ ấu. Ở đây, không phải ngẫu nhiên mà Thạch Lam nhận ra cái mới của cây bút trẻ Nguyên Hồng đem lại cho văn học ta hồi ấy, ở chỗ qua tác phẩm của thể tài người thật việc thật này, nhà văn đã khắc họa thành thực, truyền cảm, sâu sắc và thấm thía đến tột cùng cái thế giới tâm linh tiềm ẩn, tế vi, cô đơn mà hướng thiện trong một cá thể con người trẻ tuổi, sớm phải dấn thân vào đời trong sự bủa vây khắc nghiệt của bao lề thói cũ, cùng hoàn cảnh bế tắc, bi đát, bị dồn đến chân tường của mình và các thành viên chủ chốt của gia đình.
phim hay Có thể thấy Thạch Lam quả
phim hay Có thể thấy Thạch Lam quả là người có con mắt tinh đời, nhìn thấu cái thần của văn Nguyên Hồng trong buổi đầu phát lộ. Cũng trong những năm 1939-1940 đó, trên báo Ngày Nay, Thạch Lam đã cho in những tiểu luận độc đáo về nghề văn, về phê bình, tiếp nhận văn chương - một loại hình nghệ thuật của ngôn từ. Về phê bình văn chương, Thạch Lam tâm huyết nhắc nhở: “Trong công việc, nhà phê bình phải lưu ý hơn đến những tác phẩm đầu tiên của một nhà văn. Phải cúi mình xuống những tác phẩm có biểu lộ một tâm hồn rung động, một ý chí sốt sắng. Tác phẩm có thể vụng về, có thể non nớt, như tiếng chim mới biết kêu. Nhưng cốt nhất là thấy ở đấy một vẻ sắc riêng, một âm điệu đặc biệt; cái già dặn của nét bút, cách xếp đặt của cuốn truyện rồi về sau sẽ có. Không thể nhầm được, và nhà phê bình cũng không có quyền nhầm, trong đó thế nào cũng có cái gì cho ta đoán biết được tài năng về sau này. Không có gì cảm động hơn những bước chân hãy còn chập chững của những người mới mẻ, bắt đầu đi vào các đường lối trí thức và của tâm hồn”.
phim hay nhat Có thể nói Võ Thị Xuân Hà
phim hay nhat Có thể nói Võ Thị Xuân Hà đã dựa trên cơ sở là tư tưởng nhân bản rất sâu sắc khi đề cập đến vấn đề con người bản năng. Nhà văn tỏ ra rất thông cảm, thậm chí là trân trọng những khát khao tự nhiên nhưng chính đáng của các nhân vật. Tuy nhiên, ngòi bút của chị cũng không ngần ngại phê phán những con người bất chấp tất cả luân lí, đạo đức để thỏa mãn nhu cầu thấp hèn của mình và khiến cho nhiều người khác phải đau khổ. Tư tưởng này hoàn toàn chi phối các tác phẩm của Xuân Hà nên những truyện ngắn của chị khi đề cập đến đề tài này vẫn mang một vẻ đẹp thật sáng trong chứ không bị phê phán vì quá đề cao bản tính tự nhiên của con người hoặc dùng yếu tố sex để câu khách như không ít các sáng tác ra đời trong thời gian gần đây trên thị trường.
phimhaynhat222 hơi thở phải thơm tho
phimhaynhat222 hơi thở phải thơm tho” để đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý cho người phụ nữ này. Nhưng người đời đã có câu: Nhân nào quả ấy. Lối sống bệnh hoạn của hai vợ chồng Thanh đã gặp báo ứng đến khủng khiếp. Hóa ra, Sen chính là em của thiếu nữ đã gieo mình xuống dòng Hương chết cùng cái thai với Thanh khi biết tin anh ta chuẩn bị cưới Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu. Sen đến nhà Thanh xin làm người ở chỉ với mục đích tìm cách trả thù cho chị gái. Nhưng nào ngờ đến chính cô lại cũng yêu kẻ đã phụ bạc chị mình và khiến cho người mẹ vốn đã rất bất hạnh của cô phải chết vì quá thương con gái. Việc Sen trao thân cho Thanh không phải chỉ bởi sự ép buộc của Thanh mà còn bởi tình yêu của Sen với anh ta. Tuy nhiên, khi sự đê tiện và tàn nhẫn của Thanh lại được bộc lộ lúc biết cô có mang với hắn thì Sen vô cùng đau khổ. Cùng đường, nhân vật quyết định tự vẫn. Nhưng “Con bé Hàn Giao (con của vợ chồng Thanh - NV) bám tui như con vậy. Nên khi tui cùng đường, tui muốn mang nó theo (...). Chỉ còn cách đó là có thể làm cho anh ta và cái người đàn bà vô dụng kia đau đớn”. Oái oăm thay, đứa trẻ vô tội kia thì chết còn Sen lại được cứu sống. Vậy là đứa con có với Sen mà Thanh muốn nó không thể tồn tại thì sẽ lại được sống còn đứa bé đẹp như “tiểu thiên thần” của anh ta với Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu thì lại phải chết một cách oan ức, đau đớn. Sự quả báo thật vô cùng tàn khốc.
phim hot Cùng kiểu người như
phim hot Cùng kiểu người như Dân là vợ chồng hai nhân vật Thanh và Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu trong Chuyện của con gái người hát rong. Thanh vốn xuất thân trong một gia đình giàu có ở xứ Huế, trước khi lấy vợ anh ta vốn nổi tiếng là một người đàn ông phong tình. Tuy đã có một người vợ đẹp như bà cung phi nổi tiếng thứ hai mươi mốt của vua Minh Mạng là cô Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu và một đứa con rất kháu khỉnh nhưng Thanh vẫn chứng nào tật ấy. Để thỏa mãn nhu cầu bản năng của mình người đàn ông này sẵn sàng lạm dụng cả người hầu kẻ ở trong nhà. Trường hợp Sen, người phụ nữ tật nguyền là một ví dụ. Lòng dục bốc lên ghê gớm khiến Thanh không kìm được mình mà có thái độ lả lơi với Sen ngay cả khi cô đang tắm cho con anh ta. Và thời gian đầu “anh ta ham muốn tui (Sen – NV) đến phát cuồng. Anh ta chén tui như chén món thịt gà xé phay tui làm ngon hết biết cho hai người nớ ăn”, bởi theo lời Thanh thì Sen đã “làm cho anh ta được sống cuộc đời đàn ông thực sự” trong khi vợ Thanh – Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu lại “không biết làm tình”. Những lời nói này cho thấy thực chất Thanh chỉ dùng Sen để thỏa mãn nhu cầu sinh lí đồi bại của mình. Vì vậy, khi “Biết tin tui có thai, anh ta trợn mắt nhìn tui như nhìn loài rắn. Anh ta ném cho tui ít tiền, bảo đi viện làm cho gọn”. Thanh như vậy còn vợ anh ta - cô Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu - cũng chẳng hề kém cạnh. Núp trong vẻ bề ngoài của một bà chủ trẻ xinh đẹp, đài các là một nhân cách hết sức bệnh hoạn. Cô ta rất “thích đi hát karaoke trong phòng tối thui, để không nhìn thấy mặt chàng trai” mà Sen “đặt tiền cho người ta đưa đến cho cô. Anh chàng đó phải trẻ, phải khỏe,
phim hay Như đã nói
phim hay Như đã nói, nhu cầu tính dục là một nhu cầu mang tính bản năng. Nếu con người không kiểm soát được sẽ dễ dẫn đến những hậu quả xấu. Trong không ít sáng tác của mình, ngoài việc trân trọng những bản năng tự nhiên chính đáng của con người, Võ Thị Xuân Hà còn miêu tả tính dục như là thứ bản năng xấu, khiến con người sa vào những hành vi tội lỗi hoặc gặp phải những bi kịch. Nhân vật Dân trong các truyện Năm hai ngàn lẻ x… và Những kẻ lãng mạn vốn bề ngoài tưởng hiền lành, ngờ nghệch nhưng thực ra lại là một kẻ rất đê tiện, xảo quyệt. Thời gian được làm cùng Mai khiến anh ta nảy sinh dục vọng dữ dội (chứ không phải tình cảm), có đêm “Anh ta đi như người mộng du. Cơn thèm khát của đàn ông dâng trong cơ thể trẻ”. Và khi bản năng thấp hèn lấn át lý trí, Dân đã quyến rũ Mai để thỏa mãn dục vọng rồi một thời gian ngắn sau lại nhẫn tâm ruồng bỏ người đàn bà tội nghiệp (người đã cưu mang hắn, đã chiều chuộng hắn hơn cả người chồng ngày trước) cùng cái thai bốn tháng để cao chạy xa bay với không ít tiền lấy được của cô cũng như việc y làm nghề dắt gái.
phim hay nhat quên những ngày nghỉ ở rừng
phim hay nhat quên những ngày nghỉ ở rừng. Tôi đắm đuối với hình ảnh người đàn ông đang mân mê những cuống rau, như thể anh ta đã thò vào sờ nắm được hết những mạch máu li ti chảy trong cơ thể tôi mà tình yêu của Thản chỉ chạm tới chứ không nắm được”. Những ý nghĩ này không chỉ thể hiện khát khao về một tình yêu tận độ trong tưởng tượng mà qua “hình ảnh người đàn ông đang mân mê những cuống rau” còn là mong muốn vẻ đẹp của con người ấy sẽ hiện hữu trong cuộc đời nàng qua đứa con của nàng với Thản. Nếu vậy, từ đây nàng sẽ thấy vững tin hơn, sẽ thấy cuộc đời bớt phần nhàm tẻ. Giấc mơ này của Diễm thật táo bạo, nó có yếu tố sắc dục nhưng vẫn chưa đến mức loạn luân. Bản lĩnh của nhà văn thể hiện ở đây khi tác giả không muốn dùng những yếu tố giật gân nhưng phản cảm, phản thẩm mĩ để thu hút độc giả. Cái tài, cái tâm và cả cái tầm của nhà văn là ở chỗ đó. Và cũng vì thế truyện mang đậm tính nhân văn chứ không hề mang yếu tố trụy lạc, loạn luân như không ít người thấy qua hình tượng nhân vật người vợ trong Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu sau này. Văn học là một loại hình nghệ thuật nhưng tác phẩm văn học chỉ thực sự là nghệ thuật chân chính khi những sáng tạo ấy cuối cùng nhằm tôn vinh những giá trị cao đẹp của con người. Có như thế tác phẩm mới có thể tồn tại cùng thời gian. Đàn sẻ ri bay ngang rừng của Võ Thị Xuân Hà nằm trong số những sáng tác như vậy.
phim Trong một số truyện ngắn của mình
phim Trong một số truyện ngắn của mình, vấn đề tính dục lại được Xuân Hà miêu tả như một nhu cầu nổi loạn, phá phách của người phụ nữ để thoát khỏi cuộc sống nhàm tẻ, bức bối. Nói về kiểu nhân vật này không thể không kể đến Diễm trong Đàn sẻ ri bay ngang rừng, một cô gái rất cá tính và thậm chí có phần hoang dã. Khi đi săn cùng chồng trong rừng, cô sẵn sàng cởi hết quần áo để tắm mưa. Với chuyện chăn gối của vợ chồng, đây quả là một người đàn bà đầy sinh lực và khát khao, khi thì “đêm chúng tôi vẫn quấn lấy nhau như cặp rắn”, rồi lúc đi săn ở rừng “Chúng tôi lăn ra cỏ (…) ôm choàng lấy nhau, ngấu nghiến”. Những cảm xúc tình dục này ở Diễm không chỉ bắt nguồn từ nhu cầu có tính bản năng mà còn là ở sự khát khao một tình yêu tận độ, mãnh liệt. Vì thế, khi say nồng tình ái với người chồng, trong cô trỗi dậy cảm giác “thèm khát nhìn thấy tận mắt sức mạnh bí ẩn lôi cuốn người đàn ông và người đàn bà ràng buộc lấy nhau”. Ngoài ra, những hành động và cảm xúc trên của Diễm cũng là để “làm dịu những vết thương của kiếp đàn bà” - điều mà cô đang gặp phải khi làm dâu. Ngược lại với người vợ mạnh mẽ, cá tính, Thản dù là một người đàn ông có ngoại hình hấp dẫn nhưng tính cách thì có phần thụ động, yếu đuối khiến anh không dám bênh vực vợ mỗi khi Diễm bị bố mẹ chồng hoặc em chồng đè nén. Điều này làm cho cô trong mơ hồ lại nảy sinh tình cảm với Nẫm - người anh của Thản đã mất khi tham gia kháng chiến chống Mĩ - mặc dù Diễm chỉ được nghe Thản kể về anh mình. Nhưng có điều chúng ta cần chú ý, đây không phải là thứ tình cảm bắt nguồn từ ham muốn xác thịt tầm thường mà thiên về tinh thần, là sự mong muốn một chỗ dựa. Cho nên, lúc sinh nở, người mà Diễm nghĩ đến không phải là Thản, chồng cô, mà là Nẫm, qua sự tưởng tượng ra âm hồn người anh chồng này đến bên mình và “cúi xuống hôn con bé rồi đi đến bên tôi rờ rẫm cái cuống rau đỏ nòm”. Rồi lúc thiếp đi những ý nghĩ kì lạ lại trỗi dậy trong đầu người phụ nữ này: “Trong giây phút, tôi quên hết, quên Thản,
Xem Phim Ở một số hình tượng nh
Xem Phim Ở một số hình tượng nhân vật khác, Võ Thị Xuân Hà lại miêu tả vấn đề tính dục như là một nhu cầu tự nhiên của con người. Truyện Xóm đồi hoa viết về cảm xúc của một gã chăn bò chừng mười chín tuổi khi sắp được lấy vợ: “Nhưng đêm cũng như lúc chiều chạng vạng, giấc mơ đàn ông cứ trỗi dậy trong tấm thân cường tráng của gã”. Cho nên khi nhìn thấy cô gái điếm trần truồng nằm ngủ trên đồi thì chỉ đến “Giây thứ ba gã lao tới như một con trâu điên. Quần áo trên người gã cũng tung bay trên đám cỏ gai”. Còn cô gái kia cho đến nửa đêm mà “Trong lòng cô như có ngọn lửa cháy sáng (…) với niềm hạnh phúc cứ trào lên không cưỡng nổi”. Những chi tiết rất giàu tính nhân văn bởi cho thấy trong sâu thẳm tâm hồn cô gái điếm có số phận bất hạnh này (sống lang thang vì bị bệnh cùi, một thứ dịch bệnh đang hoành hành trong xã hội đương thời, khiến chân tay cô lở loét), chất người lương thiện vẫn còn rất mãnh liệt. Nếu có cơ hội là nó lại bùng lên. Đọc Chuyện của con gái người hát rong ta cũng thấy có đoạn tả về những cảm xúc nhục thể đầu đời của cô thiếu nữ Út Kim: “Đình lấy tay khẽ phủi kiến trên tóc tui. Rồi bàn tay dừng lại như khẽ hỏi. Tui giả bộ ngó sang đàn kiến đang náo loạn. Tim tôi cũng náo loạn (…). Tui im lặng tận hưởng khoảnh khắc man trá của trái tim náo loạn”. Rõ ràng, với hai tác phẩm này, khi nhìn nhận vấn đề không bằng con mắt bị chi phối bởi các yếu tố luân lí, đạo đức phương Đông nhiều khi quá khắc nghiệt, chúng ta sẽ thấy vẻ đẹp thật tự nhiên của các nhân vật, với họ chuyện gần gũi về xác thịt cũng là một nhu cầu tất yếu, nó không làm các nhân vật xấu đi mà ngược lại, cho thấy trong bản thân họ cái chất người thật tự nhiên mà đáng quý.
Xem Phim Võ Thị Xuân Hà
Xem Phim Võ Thị Xuân Hà, một trong những cây bút nữ đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam đương đại với một phong cách riêng, độc đáo trong các sáng tác. Góp phần làm nên phong cách nghệ thuật này của chị là một thế giới nhân vật đa dạng, trong đó kiểu nhân vật bản năng (ở đây chủ yếu nói tới bản năng tính dục) xuất hiện khá phổ biến. Chính kiểu nhân vật này đã giúp Xuân Hà thể hiện được rõ hơn những góc khuất của tâm hồn con người, từ đó góp phần nâng tầm nghệ thuật cho mỗi tác phẩm của chị. Với kiểu nhân vật này, trước tiên nhà văn xây dựng những con người mà bản năng thể hiện thành những khát khao chính đáng, rất nhân bản. Có thể kể đến lão Thoài trong truyện Cõi người. Đứng trước con bé Hoan, lão thấy: “Thời gian qua nó đã lớn phổng lên từ lúc nào. Tim lão đập mạnh” rồi sau đó “bàn tay lão già run và nhẹ nhàng dịch chuyển” (…). Lâu lắm rồi, lão không biết mùi hương cỏ mật và mùi nhang cháy trong đêm lại nồng nàn đến thế”. Đây là những dòng miêu tả cảm xúc của một người đàn ông đã luống tuổi khi gần gũi với một cô bé mới lớn. Nhưng hãy chú ý đó là bản năng chứ không hề phàm tục. Bởi những cảm xúc này bắt nguồn từ khát khao cháy bỏng về một gia đình và những đứa con của một đàn ông cô đơn, bất hạnh. Điều này rất đáng được trân trọng. Truyện Mây giăng thì kể về một cô gái quê trẻ tuổi người Côn Sơn, Hải Dương. Tình yêu đầu đời và thực sự của cô là với một anh chàng về làm dự án khảo sát làng văn hóa tại quê cô. Hai người quen nhau rất tình cờ khi chàng trai kia đến hiệu may của cô nhờ khâu lại cái quần. Và cũng chỉ ngay giây phút đó thôi cô gái đã nảy sinh tình cảm mãnh liệt với anh rồi sau đó “yêu anh ấy và cố tìm mọi cách để được gần gũi”. Thậm chí, dù không chắc anh chàng có yêu mình không, và hình như lại có người yêu trên Hà Nội, nhưng cô vẫn “quyết giành giật cho mình dù chỉ trong một thời khắc ngắn ngủi”. Tuy nhiên có điều, ở người phụ nữ này, ham muốn nhục thể không chỉ là bản năng mà còn là biểu hiện của tình yêu nồng cháy, bởi đến với người đàn ông kia là cô muốn khám phá và đi đến tận cùng bến bờ của một tình yêu thực sự, muốn “được biết thế nào là tình yêu của chính mình”. Chính những ý nghĩ này khiến tình yêu của cô vừa trần tục (chứ không phải phàm tục) lại rất cao đẹp và đầy chất nhân văn.
Xem Phim Hay
Xem Phim Hay Hồi ký - tự truyện về thời thơ ấu, về đời văn và nghề văn của các nhà văn Việt Nam hiện đại, đã làm phong phú và sâu sắc thêm bức tranh về đời sống xã hội - lịch sử, văn hóa - văn nghệ, chân dung văn nghệ sĩ và con người Việt Nam đương thời qua thăng trầm của lịch sử dân tộc. Nó bộc lộ một cách trung thực bản lĩnh nghệ sĩ, nhân cách văn hóa, những suy nghĩ, trăn trở tâm huyết của các thế hệ văn nghệ sĩ trước những vấn đề lớn, nhỏ của lịch sử đất nước, vận mệnh con người và đặc thù, riêng tư về nghề nghiệp mà suốt đời họ theo đuổi, cống hiến. Qua hồi ký - tự truyện của các nhà văn, người đọc thấy rõ hơn sự gắn bó máu thịt giữa văn và đời, giữa tác phẩm và sự kinh lịch, nếm trải trên mỗi bước đi của từng đời văn, nghiệp văn. “Văn tức là người”; “Phong cách tức là người”. Hồi ký - tự truyện của các nhà văn đã mở ra một cách nhìn tham chiếu cần thiết để người đọc và công chúng rộng rãi chia sẻ một cách tường minh, nhân ái và thể tất về những cái được và những điều bất cập của những người cầm bút, những kỹ sư tâm hồn, những con người dấn thân nhưng luôn luôn tự nhắc mình tìm cách đi đúng đường vì đang “vác trên vai mình của quý vô hạn là những gói bạc vàng của tâm hồn con người”, như nhà văn bậc thầy Thạch Lam đã từng nói. (*)
phim hay Trong những hồi ký về sau kể
phim hay Trong những hồi ký về sau kể về đời văn của mình, Nguyên Hồng có cho biết thời trẻ trai lúc còn đi học và trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) ông có được tiếp xúc và đọc một số tác phẩm của L.Tônxtôi, V.Hugô, M.Gorky, H.Barbusse… qua bản tiếng Pháp, trong đó có tự truyện Thời thơ ấu của M.Gorky. Tôi nghĩ, chắc hẳn câu chuyện về thời niên thiếu của cậu bé Aliosa và bút pháp tự sự của M.Gorky trong tự truyện Thời thơ ấu hẳn đã ít nhiều ảnh hưởng đến tư duy nghệ thuật và bút pháp của Nguyên Hồng, bởi số phận bất hạnh của Aliosa và cậu bé Hồng ít nhiều có những nét gần gũi, bởi “tạng” văn của Nguyên Hồng có những điểm tương đồng với M.Gorky. Thế là, đã hơn 70 năm trôi qua, kể từ ngày Những ngày thơ ấu được xuất bản. Tác phẩm được tái bản nhiều lần, vẫn không thôi xúc động người đọc các thế hệ, gây ám ảnh khôn nguôi về sự cơ cực, tủi hổ của những số phận con người nhỏ bé trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng 8/1945; sự tha hóa đáng thương cảm của con người sống mòn mỏi trong vòng vây của một xã hội cũ còn tồn tại nhiều tệ nạn xấu xa, sự bất công, vô nhân đạo. Nhưng vượt lên trên tất cả là chí khí, ý thức tu tỉnh, hướng thiện, bảo trọng nhân cách của một con người trẻ tuổi có học, biết nghĩ, biết vươn lên trong mưu sinh, khốn khó. Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tư tưởng và bút pháp nghệ thuật của tác phẩm đã khiến tác phẩm tồn tại bền vững qua thử thách của thời gian. Sức sống mạnh mẽ, giọng điệu thống thiết, đằm thắm, tình cảm tươi mới, trẻ trung, lúc nào cũng biểu hiện ở cường độ cao, mãnh liệt, cảnh sắc rực rỡ, âm thanh náo động… trong văn Nguyên Hồng luôn có sức thu hút người đọc. Giáo sư Phan Cự Đệ, một chuyên gia nghiên cứu về Nguyên Hồng đã kể lại: “Tôi nhớ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, một lần phải dịch ra Pháp văn một đoạn trong Những ngày thơ ấu, cái đoạn nói về tiếng kèn. Đã bao năm qua rồi mà tôi vẫn không thể quên được cái tiếng kèn náo nức, dồn dập, rung vang đó”. (“Lời giới thiệu” Tuyển tập Nguyên Hồng, tập I, Nxb. Văn học, 1985, tr.33).
phim Trở lại ý kiến của Thạch Lam về Những ngày thơ ấu
phim Trở lại ý kiến của Thạch Lam về Những ngày thơ ấu. Ở đây, không phải ngẫu nhiên mà Thạch Lam nhận ra cái mới của cây bút trẻ Nguyên Hồng đem lại cho văn học ta hồi ấy, ở chỗ qua tác phẩm của thể tài người thật việc thật này, nhà văn đã khắc họa thành thực, truyền cảm, sâu sắc và thấm thía đến tột cùng cái thế giới tâm linh tiềm ẩn, tế vi, cô đơn mà hướng thiện trong một cá thể con người trẻ tuổi, sớm phải dấn thân vào đời trong sự bủa vây khắc nghiệt của bao lề thói cũ, cùng hoàn cảnh bế tắc, bi đát, bị dồn đến chân tường của mình và các thành viên chủ chốt của gia đình. Cuốn hồi ký - tự truyện này có số trang không nhiều, chỉ tương đương với một truyện vừa dưới 100 trang in. Xuôi theo dòng hồi ức có chọn lọc của nhân vật tôi - cậu bé Hồng, tức tác giả thời niên thiếu - nhớ và kể lại tuần tự những chuyện đã xảy ra còn ám ảnh hằn sâu vào tâm trí mình cho đến nay, kể từ lúc cậu ta chào đời đến năm học giữa chừng bậc tiểu học, không may bị thầy dạy hiểu nhầm, đánh đập tàn nhẫn, dùng hình phạt sỉ nhục nhân cách học trò, khiến cậu phẫn chí buộc phải bỏ học. Qua từng trang, tác giả mở ra một bức tranh với những chi tiết cụ thể, sống động về xã hội thành thị tỉnh lẻ ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, cơ cực, khốn khó và tăm tối cùng các mối quan hệ gia đình, quan hệ xã hội bị chiết tỏa bởi những thành kiến nặng nề, phản nhân văn. Nhưng xuyên suốt tác phẩm, qua 9 mẩu hồi ức được đặt tên nhấn mạnh các khía cạnh của chủ đề tác phẩm, nhà văn đã rọi chiếu ánh sáng vào những mẩu sự kiện, chi tiết, ý nghĩ, cảm xúc của con người từ cái nhìn nghệ thuật của cái tôi tác giả là một cậu bé, giúp người đọc thâm nhập sâu vào những ngõ ngách, những biểu hiện tế vi của tâm lý, tình cảm con người. Bằng ngôn ngữ biểu cảm, tự nhiên và chân thật, tác giả đã ghi lại những ấn tượng mạnh mẽ, cảm xúc, cảm nghĩ phức hợp của một cậu bé lặng lẽ quan sát, xét đoán về những người thân trong gia đình mình (bà nội, bố, mẹ, người cô); về những người hàng xóm, láng giềng, những bạn bè thân quen; về thầy bạn trong trường lớp. Một thế giới thu nhỏ được nhìn nhận, bình giá qua đôi mắt mở to với những ấn tượng mỗi ngày một nhiều lên, sâu thêm rồi “làm tổ” trong lòng cậu bé ấy - một sinh linh nhỏ bé nhưng cả nghĩ, có phần già trước tuổi.
xem phim Có thể thấy Thạch Lam
xem phim Có thể thấy Thạch Lam quả là người có con mắt tinh đời, nhìn thấu cái thần của văn Nguyên Hồng trong buổi đầu phát lộ. Cũng trong những năm 1939-1940 đó, trên báo Ngày Nay, Thạch Lam đã cho in những tiểu luận độc đáo về nghề văn, về phê bình, tiếp nhận văn chương - một loại hình nghệ thuật của ngôn từ. Về phê bình văn chương, Thạch Lam tâm huyết nhắc nhở: “Trong công việc, nhà phê bình phải lưu ý hơn đến những tác phẩm đầu tiên của một nhà văn. Phải cúi mình xuống những tác phẩm có biểu lộ một tâm hồn rung động, một ý chí sốt sắng. Tác phẩm có thể vụng về, có thể non nớt, như tiếng chim mới biết kêu. Nhưng cốt nhất là thấy ở đấy một vẻ sắc riêng, một âm điệu đặc biệt; cái già dặn của nét bút, cách xếp đặt của cuốn truyện rồi về sau sẽ có. Không thể nhầm được, và nhà phê bình cũng không có quyền nhầm, trong đó thế nào cũng có cái gì cho ta đoán biết được tài năng về sau này. Không có gì cảm động hơn những bước chân hãy còn chập chững của những người mới mẻ, bắt đầu đi vào các đường lối trí thức và của tâm hồn”. Trong một bài viết khác, khi bàn về tiểu thuyết, Thạch Lam có nhận xét thẳng thắn về sự nghèo nàn, hời hợt, nông nổi bề ngoài, thiếu sâu sắc, dồi dào của tiểu thuyết Việt Nam hồi bấy giờ, bởi trong những tác phẩm tự sự đó, nhà văn đã như người đi nhầm đường, không biết nhận ra, đi sâu khai thác cái của quý vô hạn là tâm hồn con người (tâm hồn tác giả, tâm hồn nhân vật), diễn tả nó ra, phân tích kỹ lưỡng và nghệ thuật những biểu hiện, thay đổi của tâm hồn trong đời sống phồn tạp của con người ta. Ông nhấn mạnh, cái mà văn học ta thiếu lúc này là nhận ra địa vị quan trọng của việc khám phá những bí mật của thế giới bên trong con người, bởi chỉ ở đây mới cho thấy nhà văn - qua công cụ ngôn ngữ đặc thù - đã nhìn sâu sắc vào cái phần không dễ thấy của con người, đồng thời cũng cho thấy bản lĩnh độc lập và tâm hồn thanh cao của người viết. Thạch Lam khẳng định: “Tài năng không phải ở cách xếp đặt các câu văn, xếp đặt cốt truyện cho có mạch lạc; cái thực tài của nhà văn nguồn gốc ở chính tâm hồn nhà văn; một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú
Subscribe to:
Posts (Atom)